1.
Vấn đề dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc
giải quyết vấn đề dân tộc
Việt Nam là một quốc
gia độc lập, thống nhất, có nhiều dân tộc. Trong 54 dân tộc anh em, dân tộc
Kinh là dân tộc đa số, còn lại là dân tộc thiểu số. Phần lớn các dân tộc thiểu
số sống ở khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, đây là những địa bàn có vị trí
chiến lược quan trọng về kinh ế, an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái và sự
thông thương với nước ngoài. Do ý thức được tầm quan trọng của vấn đề dân tộc,
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam
và Nhà nước Việt Nam đã sớm hoạch định và thực hiện nhất quán chính sách các
dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng đấu
tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Giải quyết thành công vấn đề dân
tộc không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực phát triển kinh tế - xã hội ở nước
ta hiện nay. Đây chính là nhiệm vụ của toàn Đảng, toán dân, liên quan đến tất
cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và toàn bộ hoạt động của hệ thống
chính trị trong cả nước.
Tình hình thế giới hiện
nay đang có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là vấn đề xung đột dân tộc và
sắc tộc. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang triển khai chiến lược
diễn biến hòa bình, lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá nước ta, chia rẽ khối
đại đoàn kết dân tộc. Do vậy, việc nhận thức đúng đắn, sâu sắc vị trí vấn đề dân
tộc và chính sách dân tộc là nhiệm vụ mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước
ta hiện nay. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó thì việc tìm hiểu và bám sát quan
điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về giải quyết vấn đề dân tộc là đòi hỏi về mặt lý
luận và thực tiễn.
Chúng ta cùng đi vào
làm rõ vấn đề cơ bản về dân tộc và nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc.
a) Khái niệm dân tộc
*
Khái niệm dân tộc
Cho đến nay, chưa có
định nghĩa về dân tộc được mọi người thừa nhận. Điều đó một phần là do dân tộc
được xem xét từ những quan điểm, lập trường và giác ngộ khác nhau; phần khác là
do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại hình dân tộc đang tồn tại ở các
quốc gia, khu vực trên thế giới.
C.Mác, Ph.Ăngghen và cả
V.I.Lênin chưa đưa ra định nghĩa về dân tộc, mặc dù các ông bàn rất nhiều về
dân tộc. Năm 1913, trong cuốn sách Chủ
nghĩa Mác và vấn đề dân tộc, Stalin đã nêu lên một định nghĩa về dân tộc “Dân tộc là một khối người cộng đồng ổn
định, được thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng người về tiếng
nói, lãnh thổ sinh hoạt kinh tế và tâm lý biểu hiện trong cộng đồng văn hóa”.
Trong nhiều năm, ở các nước xã hội chủ nghĩa nhiều người xem đó là định nghĩa
kinh điển của chủ nghĩa Mác –Lênin về dân tộc. Hiện nay, một mặt cần khẳng định
giá trị bền vững của định nghĩa trên, mặt khác cần bổ sung vào định nghĩa đó
cho phù hợp với sự phát triển của lý luận và thực tiễn.
Ở nước ta, có nhiều nha
khoa học nghiên cứu để đưa ra định nghĩa về dân tộc. Cuốn Từ điển tiếng Việt
nêu định nghĩa dân tộc như sau:
“1. Cộng đồng người hình
thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ
văn học và một số đặc trưng văn hóa và tính cách…
2. Tên gọi chung những
cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa,
hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc…
3. Cộng đồng người ổn
định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó
với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống
đấu tranh chung…” .
Trong Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin đưa ra khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
Thứ
nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ
thể nào đó có những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung,
có ngôn ngữ chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù
so với những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có sự kế thừa và
phát triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý
thức tự giác của các thành viên trong cộng đồng đó.
VD: Dân tộc Kinh, dân
tộc Thái, dân tộc Mường …
Thứ
hai, khái niệm dân
tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của
một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có
truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và
giữ nước.
VD:
Dân tộc Việt nam, dân tộc Trung Hoa,…
Như vậy, dân tộc là một
khái niệm đa nghĩa, nhưng có hai nghĩa chính là: hoặc để chỉ cộng đồng dân cư
của một quốc gia, hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một tộc người. Dưới góc độ
của của môn chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo nghĩa quốc gia,
tuy nhiên vẫn phải đặt trong mối liên hệ với nghĩa là tộc người thì những nội
dung của nó mới bộc lộ đầy đủ.
*Những đặc trưng chủ yếu của dân
tộc:
+ Có chung một phương
thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Các mối
quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo
nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chứng minh rằng: động lực gắn kết các dân tộc thành một nhà nước, một quốc gia
thống nhất chính là yếu tố kinh tế. Trong một quốc gia dân tộc tồn tại nhiều
giai cấp có những lợi ích khác nhau nhưng phải có sự tương đồng về lợi ích.
Tính thống nhất, tương đồng về kinh tế là cơ sở đảm bảo cho sự thống nhất quốc
gia dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở hình thành, phát triển và củng cố
các giá trị văn hóa tinh thần nảy sinh và tồn tại trên các quan hệ kinh tế ấy.
+ Có thể cư trú tập
trung trên một vùng lãnh thổ chung của một quốc gia, hoặc cư trú đan xen với
nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng gắn với việc xác
lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
Lãnh thổ là biểu hiện
chủ quyền của dân tộc trong mối quan hệ với quốc gia dân tộc khác. Lãnh thổ của
một quốc gia dân tộc bao gồm trong nó: vùng lãnh thổ cư trú của các dân tộc –
tộc người hợp thành quốc gia dân tộc; vùng lãnh thổ có chủ quyền và cả các vùng
lãnh thổ có quyền chủ quyền. Lãnh thổ của mỗi dân tộc nói chung, cũng như của
từng bộ phận của lãnh thổ ấy được hình thành, phát triển trải qua một quá trình
lịch sử lâu dài, gắn với lịch sử tồn tại, phát triển quốc gia dân tộc, cũng như
của các dân tộc – tộc người hợp thành… Do đó, lãnh thổ là một giá trị văn hóa
chung, đặc thù của quốc gia dân tộc, là sản phẩm của quá trình phát triển
phương thức sản xuất, phương thức sinh hoạt vật chất và tinh thần của cả cộng
đồng quốc gia dân tộc.
+ Có chung đời sống văn
hóa và ngôn ngữ
Văn hóa là yếu tố đặc
biệt gắn kết cộng đồng thành một khối thống nhất, được chắt lọc trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc. Văn hóa là động lực của sự phát triển, là công cụ để
bảo vệ độc lập chủ quyền của quốc gia, văn hóa là đặc trưng cơ bản nhất để phân
biệt sự khác nhau giữa các dân tộc.
Ngôn ngữ là công cụ
quan trọng nhất trong giao tiếp của mỗi dân tộc. Ngôn ngữ là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài về kinh tế - xã hội của dân tộc, là công cụ bảo lưu,
giữ gìn những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc và là một biểu tượng cho thấy
sự trường tồn của mỗi dân tộc. Trong quốc gia nhiều dân tộc bao giờ cũng có một
ngôn ngữ chung thống nhất làm công cụ giao tiếp. Cùng với ngôn ngữ, các giá trị
văn hóa hợp thành đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc – tộc người
trong quốc gia dân tộc cũng tồn tại, phát triển trong quá trình lịch sử lâu
dài.
Như vậy, cồng đồng
người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đầy đủ các đặc trưng trên, các đặc
trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi đặc
trưng có một vị trí xác định. Từ những đặc trưng này có thể phân biệt rõ khái
niệm dân tộc với khái niệm sắc tộc, từ đây cũng cho thấy khái niệm dân tộc và
khái niệm quốc gia gắn bó chặt chẽ với nhau.
Với tính cách là một bộ
phận hợp thành chủ nghĩa Mác –Leenin và dựa trên nguyên tắc của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, chủ nghĩa xã hội khoa học tiếp cận nghiên cứu dân tộc chủ yếu với
tính cách là một quốc gia dân tộc, trong đó bao gồm một hay nhiều dân tộc – tộc
người hợp thành được hình thành, phát triển trong tiến trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Từ đó việc nghiên
cứu dân tộc được đặt trong mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa lợi ích của giai
cấp công nhân với lợi ích chính đáng và cơ bản của nhân dân lao động, của toàn
dân tộc và quốc gia dân tộc.
b) Hai xu hướng phát
triển của dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
Nghiên cứu phong trào
dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu
hướng khách quan trong sự phát triển của dân tộc, đó là xu hướng tách ra để xác
lập các cộng đồng dân tộc độc lập và xu hướng liên hiệp lại với nhau giữa các
dân tộc. Hai xu hướng cơ bản này được diễn ra qua các hình thức khác nhau, tùy
thuộc vào tương quan lợi ích của các giai cấp trong mỗi cộng đồng dân tộc với
lợi ích chung của cộng đồng dân tộc ấy.
- Xu hướng thứ nhất: do sự chín muồi của ý thức dân tộc , sự thức tỉnh về
quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc
gia dân tộc độc lập.
+
Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư có
nguồn gốc tộc người khác nhau. Khi mà các tộc người đó có sự trưởng thành về ý
thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư đó muốn tách
ra thành lập các dân tộc độc lập.
+ Chỉ trong cộng đồng
dân tộc độc lập, các dân tộc đó mới có quyền quyết định vận mệnh của mình mà
quyền cao nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát
triển.
+ Trong thực tế, xu
hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập
các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đầu của chủ
nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
- Xu hướng thứ hai: Các dân tộc ở
từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau.
+
Xu hướng này nổi lên trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa
trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các
dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc,
thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
-
Hai xu hướng này vận động trong điều
kiện chủ nghĩa đế quốc gặp nhiều trở ngại.
+ Nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập tự do bị
chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ. Chính sách xâm lược đó đã
biến hầu hết các dân tộc nhỏ bé hoặc còn ở trình độ lạc hậu thành thuộc địa và
phụ thuộc vào nó.
+ Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự
nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận để thay vào đó là những khối
liên hiệp do chủ nghĩa đế quốc lập ra nhằm duy trì sự áp bức, bóc lột đối với
các dân tộc đó, trên cơ sở bất bình đẳng và sự cưỡng bức.
- Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, chỉ trong điều
kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì
tình trạng dân tộc này áp bức, nô dịch
các dân tộc khác mới bị xóa bỏ. Chỉ khi đó, hai xu hướng khách quan của sự phát
triển dân tộc mới có điều kiện để thực hiện đầy đủ, trong hòa bình và có tính
chất tự nguyên. Qúa độ từ chủ ngĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là quá độ lên
một xã hội thực sự tự do, bình đẳng, đoàn kết, hữu nghị giữa người và người.
-
Về cơ bản, hai xu hướng này có sự thống
nhất chặt chẽ với nhau. Các dân tộc tự nỗ lực vươn lên để đi tới tự chủ và phồn
vinh là điều kiện để các dân tộc xích lại gần nhau, xóa bỏ mặc cảm và sự chênh
lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Sự tăng cường liên kết, hợp tác
giữa các dân tộc trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện lại tạo điều kiện cho các dân
tộc đi tới tự chủ và phồn vinh, cho phép các dân tộc không chỉ dựa vào tiềm
năng lợi thế của mình mà còn dựa vào tiềm năng của các dân tộc anh em trong sự
liên minh vững chắc để cùng phát triển.
-
Hai xu hướng này phù hợp với sự phát
triển của các dân tộc trên thế giới
+
Thời đại ngày nay các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy, xóa bỏ ách đô hộ của chủ
nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình: bao gồm
quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc, quyền
bình đẳng với các dân tộc khác. Xu hướng này cũng là biểu hiện trong cuộc đấu
tranh của các dân tộc nhỏ bé đang là nạn nhân của sự kỳ thị dân tộc, phân biệt
chủng tộc, đang bị coi là đối tượng của chính sách đồng hóa cưỡng bức ở nhiều
nước tư bản.
+
Thời đại ngày nay các dân tộc muốn xích lại gần nhau để trở lại hợp nhất thành
một quốc gia thống nhất. Các dân tộc liên minh trên cơ sở lợi ích chung nhất
định. Các dân tộc có những lợi ích mang tính khu vực, dựa trên yếu tố gần nhau
về địa lý, giống nhau về môi trường thiên nhiên, tương đồng về một số giá trị văn
hóa, trùng hợp nhau về lịch sử và hiện tại trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
bên ngoài.
Nhận
rõ được điều này, mỗi dân tộc, quốc gia phải biết thực hiện chính sách độc lập
tự chủ để mở cửa hội nhập vào dòng vận động chung của nhân loại; đồng thời phải
tìm được giải pháp hữu hiệu để giữ gìn, phát huy bản sắc của dân tộc mình.
-
Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu
hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong
từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc. Sự
xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các dân tộc sẽ tạo điều
kiện cho từng dân tộc đi nhanh tới sự tự chủ và phồn vinh. Bởi vì, nó sẽ tạo
điều kiện cho dân tộc đó có thêm những điều kiện vật chất và tinh thần để hợp
tác chặt chẽ hơn các dân tộc anh em; đồng thời nó cho phép mỗi dân tộc không
chỉ sử dụng tiềm năng của các dân tộc mình mà còn có sự gắn kết với tiềm năng
của các dân tộc anh em trong một nước để tiến lên phía trước.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cả hai xu hướng trên đều loại
trừ các tư tưởng và hành vi kỳ thị dân tộc, chia rẽ dân tộc, tự ti dân tộc, dân
tộc hẹp hòi và xung đột dân tộc.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào
dân tộc trong thời đại hiện nay, Đảng ta đã khẳng định “Giữ vững độc lập tự chủ
đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại”
là nguyên tắc thống nhất của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
c)
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Dựa trên cơ sở tư tưởng
của C. Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc; dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm
đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc
hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển
của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.
Lênin đã khái quát lại thành "Cương lĩnh dân tộc" củaĐảng cộng sản.
Trong tác phẩm Về quyền dân tộc tự quyết, Người nêu rõ: "Các dân tộc hoàn
toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các
dân tộc lại".
*
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
- Theo Từ điển tiếng
Việt: bình đẳng là ngang nhau, như nhau về địa vị, quyền lợi. Bình đẳng dân tộc
là các dân tộc như nhau về địa vị và quyền lợi.
Quyền bình đẳng dân tộc là quyền của tất cả các dân tộc được
hưởng những điều kiện và những khả năng như nhau đối với việc tự do phát triển
các năng lực và thỏa mãn các nhu cầu của mình, có địa vị như nhau đối với tất
cả các dân tộc.
- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất
cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây là cơ
sở pháp lý chung giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong khu vực
hay trong một quốc gia.
Bình
đẳng giữa các dân tộc cũng chính là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động các
nước. Quyền bình đẳng dân tộc bao hàm cả quyền bình đẳng của các tộc người
thiểu số… bất cứ một thứ đặc quyền nào dành riêng cho một dân tộc và bất cứ một
sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị bác bỏ.
+
Trên lĩnh vực kinh tế: bình đẳng dân tộc phụ thuộc vào sự đồng đều về trình độ
phát triển kinh tế của các dân tộc, cốt lõi là sự phát triển đồng đều về lực
lượng sản xuất. Theo V.I.Lênin, lợi ích kinh tế gắn liền với lợi ích giai cấp,
dân tộc, quốc gia. Khi giải quyết các mối quan hệ liên quan đến dân tộc – quốc
gia, dân tộc – tộc người đều phải tính đến quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế.
Ngày nay, trong xu thế giao lưu hợp tá quốc tế giữa các quốc gia dân tộc hay
giữa các dân tộc – tộc người, bình đẳng trên phương diện kinh tế sẽ tạo điều
kiện thực hiện tốt nguyên tắc bình đẳng, hợp tác cùng có lợi trong phát triển
kinh tế của các dân tộc, các quốc gia.
+
Trên lĩnh vực chính trị: Bình đẳng về chính trị đóng vai trò là tiền đề, là
điều kiện tiên quyết và là cơ sở để thực hiện bình đẳng trên các lĩnh vực khác
trong quan hệ giữa các dân tộc. Đối với các dân tộc bị áp bức, bị lệ thuộc, đấu
trnh giành quyền bình đẳng về chính trị, chính là điều kiện để có bình đẳng
trên các phương diện khác của đời sống xã hội. Bình đẳng về chính trị là quyền
của mỗi dân tộc tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao gồm: quyền lựa
chọn chế độ, con đường phát triển của dân tộc mình, quyền quyết định chính sách
dân tộc mình trong lĩnh vực quan hệ với dân tộc khác. Mọi biểu hiện nhằm can
thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia dân tộc đều vi phạm quyền bình đẳng
chính trị của các dân tộc.
+
Trên lĩnh vực văn hóa xã hội: Văn hóa là biểu hiện kết tinh những giá trị nổi
bật của mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa mang đậm bản sắc của dân
tộc mình. Trong quan hệ dân tộc, văn hóa là một nhân tố có ý nghĩa quyết định
địa vị bình đẳng của một dân tộc này với dân tộc khác. Vấn đề bình đẳng trong
văn hóa phải gắn liền với bình đẳng về kinh tế, chính trị.
*Các
dân tộc có quyền tự quyết
-
Quyền dân tộc tự quyết là quyền của các dân tộc tự mình định đoạt công việc và
vận mệnh của mình, quyền độc lập chính trị và phân lập về mặt chính trị khỏi
dân tộc áp bức họ. Quyền dân tộc tự quyết có thể biểu hiện ở những mức độ khác
nhau, từ tự trị ội bộ đến tách ra thành quốc gia dân tộc độc lập. Theo
V.I.Lênin quyền tự quyết dân tộc không chỉ là quyền phân lập mà còn là quyền
liên kết để trở thành quốc gia dân tộc độc lập.
-
Quyền dân tộc tự quyết trước hết xuất
hiện trong quốc gia nhiều dân tộc. Do nạn áp bức giữa dân tộc lớn với dân tộc
nhỏ nên đã hình thành phong trào đòi quyền tự quyết của các dân tộc bị áp bức.
Trong phong trào này giai cấp công nhân đã đề xướng nguyên tắc về quyền tự
quyết của các dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc.
Độc
lập chính trị là quyền cơ bản thiêng liêng của mỗi dân tộc, cũng là mục tiêu
đầu tiên của giai cấp công nhân ở các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh
giải phóng giai cấp mình. Thực hiện quyền dân tộc tự quyết là làm suy yếu chủ
nghĩa đế quốc, góp phần xóa bỏ sự hiềm khích, nghi kỵ giữa các dân tộc, tạo
điều kiện cho sự thống nhất giữa giai cấp công nhân với các dân tộc trên toàn
thế giới.
*Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc
-
Là sự đoàn kết thống nhất giai cấp công nhân tất cả các dân tộc trên cơ sở có cùng
địa vị kinh tế - xã hội, có sự thống nhất về lợi ích giai cấp, có cùng sứ mệnh
lịch sử
-
Liên hiệp giai cấp công nhân các dân tộc vừa là kết quả vừa là điều kiện thực
hiện quyền bình đẳng và quyền dân tộc tự quyết. Đây là liên minh quốc tế trong
cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp và áp bức dân tộc, vì sự giải phóng dân
tộc và xã hội.
V.I.Lênin
cho rằng: Việc giải phóng khỏi ách tư bản, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cộng
sản chủ nghĩa là nhiệm vụ quốc tế của tất cả những người vô sản, của tất cả nhân
dân lao động các nước. Chủ nghĩa quốc tế vô sản thể hiện tính chất chung của
những quyền lợi cơ bản của những ý nguyện tiến bộ của nhân dân lao động tất cả
các dân tộc vì nguồn gốc và bản chất, nó đối lập với chủ nghĩa dân tộc tư sản
gây sự thù hằn và chia rẽ giữa các dân tộc.
=> Ba
nội dung trên của Cương lĩnh dân tộc là cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để
giải quyết các quan hệ dân tộc. Trong ba nội dung ấy, nội dung thứ ba có vai
trò liên kết các nội dung khác trong cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác
–Lênin thành một chỉnh thể, đồng thời nó thể hiện trên thực tế tinh thần yêu
nước và tinh thần quốc tế chân chính, tạo ra sức mạnh và động lực to lớn có tác
dụng thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau trong cuộc đấu tranh chung. Nguyên
tắc cơ bản để thực hiện ba nội dung này của Cương lĩnh dân tộc trong tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở mỗi dân tộc, quốc gia là đặt dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân nhằm cải tạo xã hội một cách toàn diện, triệt để.
Khi
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực chống đối và thù địch
với chủ nghĩa xã hội đã ra sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác –Lênin nói chung và quan
điểm giải quyết vấn đề dân tộc nói riêng. Chúng kích động tâm lý ly khai, xuyên
tạc về quyền dân tộc tự quyết trong mọi trường hợp, kích động các dân tộc thiểu
số đòi phân lập thành lãnh thổ, quốc gia riêng bất chấp pháp luật quốc gia và
công ước quốc tế. Mặt khác, chúng thông qua quá trình toàn cầu hóa can thiệp
thô bạo vào chủ quyền quốc gia, xâm phạm lãnh thổ nhiều nước dưới chiêu bài nhân
quyền, dân chủ, tự do tôn giáo…
Ngày
nay, vấn đề dân tộc đang diễn ra vô cùng phức tạp. Những xung đột dân tộc, tộc
người, những mưu đồ đồng hóa dân tộc vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều sắc thái
tinh vi,ở nhiều quốc gia khu vực. Những năm gần đây, ở Việt Nam các thế lực thù
địch cũng ráo riết lợi dụng vấn đề dân tộc, những khó khăn trong đời sống của
đồng bào các dân tộc thiểu số, kích động bạo loạn, ly khai, chia rẽ khối đại
đoàn kết các dân tộc. Việc giải quyết những tranh chấp hay mâu thuẫn liên quan
đến dân tộc đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đầy đủ hơn, sâu sắc và vận
dụng một cách sáng suốt cụ thể những quan điểm về vấn đề dân tộc cũng như nội
dung của cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa xã hội khoa học. Mặt khác, phải đấu
tranh kiên quyết làm thất bại mọi thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền nhằm thực hiện “Diễn biến hòa bình” từ các thế lực chống đối.
d. Quan điểm, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc trong thời
kỳ mới.
Chính sách dân tộc ở Việt
Nam là toàn bộ đường lối, chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước, tác động
vào và nhằm giải quyết các vấn đề dân tộc trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của
đời sống xã hội liên quan đến quan hệ dân tộc, lợi ích dân tộc thuộc cộng đồng
các dân tộc Việt Nam thống nhất.
Chính sách dân tộc bao
hàm trong nó các chính sách nhằm giải quyết các vấn đề dân tộc, lợi ích dân tộc
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài và các
chính sách dân tộc nhằm giải quyết các vấn đề dân tộc, lợi ích của quốc gia dân
tộc Việt Nam trong mối quan hệ với các dân tộc trên thế giới. Các nội dung cơ
bản của chính sách dân tộc có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó, phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là mục đích cơ bản,
bao trùm mà chính sách dân tộc cần hướng tới.
- Những nội dung cơ bản
của chính sách dân tộc ở nước ta.
Nội
dung đối nội của chính sách dân tộc
+
Bình đẳng giữa các dân tộc
Đây là nội dung cơ bản,
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của chính sách dân tộc về quyền của các dân tộc
thiểu số. Các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển
cao hay thấp, đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Đó là
bình đẳng về chính trị, bình đẳng về kinh tế, bình đẳng về văn hóa.
Chúng ta chống chia rẽ,
kỳ thị dân tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; tự trị dân
tộc. Đảm bảo bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có
trácg nhiệm giúp đỡ các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để đạt được trình độ
phát triển chung với các dân tộc khác. Xã hội bảo đảm cho việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam.
+
Đoàn kết các dân tộc.
Các dân tộc Việt Nam
cùng chung sống lâu đời bên nhau, gắn bó máu thịt với nhau, sát cánh cùng nhau
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống đòa kết giúp đỡ nhau đã được giữ gìn
và phát triển trong suốt tiến trình hàng nghìn năm lịch sử. Ngày nay cần được
củng cố, phát triển hơn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đoàn kết dân tộc, đó là
đoàn kết các tầng lớp, các giai cấp; đoàn kết các dân tộc, đoàn kết người Việt Nam ở
trong nước và nước ngoài; đoàn kết quốc tế.
+
Tương trợ nhau cùng phát triển.
Các dân tộc có trình độ
phát triển kinh tế - xã hội cao hơn phải có trách nhiệm giúp đỡ các dân tộc có
điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn hơn. Tương trợ giúp đỡ nhau
không phải chỉ là giúp đỡ một chiều; mà ngược lại chính sự phát triển của dân
tộc này là điều kiện để cho các dân tộc khác ngày càng phát triển hơn.
Tương trợ giúp đỡ nhau
trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các dân tộc, thực hiện đầy đủ quyền
bình đẳng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Nội
dung đối ngoại của chính sách dân tộc
Thực hiện quan hệ dân
tộc trên tinh thần độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu bì hòa bình, độc lập và phát triển. Quan hệ dân tộc trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và
cùng có lợi; giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương lượng hòa bình. Chủ
trương sẵn sàng là đối tác tin cậy thể hiện mong muốn thật sự hội nhập của Đảng
ta, nhằm tạo thêm nguồn lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Chính sách dân tộc
của Đảng ta qua các kỳ Đại hộc Đảng.
Trong mỗi thời kỳ cách
mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là
nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp và tiềm năng riêng
của từng dân tộc trong sự nghiệp phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Phát huy sức mạnh của cả
cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào
dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những
ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai”.
“Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển…xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc; thực hiện công bằng xã hôi giữa các dân tộc…đặc
biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn… chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư
tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ty,
mặc cảm dân tộc”.
Sau này Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng về vấn đề dân tộc đã được cụ thể hóa trong hai Nghị quyết của
Hội nghị Trung ương 7: “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và Nghị quyết “Về công tác dân
tộc”
Đánh giá về mặt ưu
điểm, hiệu quả, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong những năm đổi
mới, Nghị quyết của Đảng “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân tộc, văn minh” nhấn mạnh: “Nhìn chung
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội
của đất nước”.
Đồng thời Nghị quyết nghiêm túc nêu ra mặt hạn chế, yếu kém cần khắc phục là
“mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng
trước những thách thức mới”.
Sau khi chỉ ra nguyên
nhân những hạn chế của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Nghị quyết đề ra mục
tiêu và bốn quan điểm, khẳng định vai trò, nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu,
nhân tố có ý nghĩa quyết định của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. “Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng…trong đó các chủ
trương của Đảng và chính sách của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”.
Một lần nữa, Đại hội
lần thứ XI của Đảng lại tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp
nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh
thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi
người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”.
- Một số quan điểm cơ
bản của Đảng ta về công tác dân tộc trong thời kỳ mới:
+ Vấn đề dân tộc và
đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề
cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
+ Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm
mưu chia rẽ dân tộc.
+ Phát triển toàn diện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân
tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực
hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá
trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát
triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
+ Ưu tiên đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết tập trung vào
phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo khai thác có hiệu
quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường
sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân
tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của trung ương và sự giúp đỡ của
các địa phương trong cả nước.
+ Công tác dân tộc và
thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
- Những nhiệm vụ chủ
yếu và cấp bách:
+ Đẩy mạnh công tác xóa
đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trung tâm là
đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trợ giúp đồng bào nghèo.(Chú ý giải quyết
tình trạng thiếu đất sản xuất, tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, nhất là Tây Nguyên, Tây Bắc,Tây Nam Bộ).
+ Tiếp tục thực hiện có
hiệu quả chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình, thực hiện chương trình
phổ cập giáo dục, tăng cường cơ sở khám chữa bệnh cho đồng bào.
+ Củng cố và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng dân tộc thiểu số, phát triển
đảng viên trong đồng bào dân tộc. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế
trận an ninh nhân dân, không để “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội ở vùng
dân tộc và miền núi.
+ Thực hiện tốt chính
sách tín ngưỡng và tôn giáo ở vùng dân tộc và miền núi; kiên quyết ngăn chặn
việc lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng để hoạt động phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
+ Đổi mới nội dung,
phương thức công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
+ Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây
dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương.
+ Thông qua các chính
sách, biện pháp cụ thể động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí
tự lực, tự cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội, xóa đối giảm nghèo, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
- Một số giải pháp chủ
yếu trong thời gian tới.
+ Nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn thể xã hội về vị
trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình mới.
+ Tiếp tục thực hiện
tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi;
rà soát điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và nghiên cứu
ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc và
nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
+ Thực hiện tốt công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho
từng vùng, từng dân tộc, kiện toàn và chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức cơ quan
làm công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường số lượng và chất
lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc; một số bộ, ngành tổ chức bộ phận và
có cán bộ chuyên trách làm công tác dân tộc.
+ Tăng cường công tác
vận động quần chúng trong cuộc bảo đảm thực hiện tốt chính sách dân tộc trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
Vấn đề dân tộc là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Giải quyết tốt các vấn đề dân tộc có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển, hay khủng hoảng, tan rã của các quốc gia, dân tộc. Chúng ta cần có các biện pháp đúng đắn,sáng suốt để làm tốt công việc này, có như vậy sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta mới giành thắng lợi.
Trả lờiXóaVấn đề dân tộc là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Giải quyết tốt các vấn đề dân tộc có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển, hay khủng hoảng, tan rã của các quốc gia, dân tộc. Chúng ta cần có các biện pháp đúng đắn,sáng suốt để làm tốt công việc này, có như vậy sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta mới giành thắng lợi.
Trả lờiXóaVấn đề dân tộc là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Giải quyết tốt các vấn đề dân tộc có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển, hay khủng hoảng, tan rã của các quốc gia, dân tộc. Chúng ta cần có các biện pháp đúng đắn,sáng suốt để làm tốt công việc này, có như vậy sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta mới giành thắng lợi.
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaĐể thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu về các dân tộc, văn hóa các dân tộc, trước tiên phải nắm chắc những vấn đề then chốt trong hệ thống lý thuyết tộc người và bắt buộc phải phân loại được các tộc người/dân tộc. Khâu then chốt này vừa là mục tiêu, nhiệm vụ, lại vừa là cơ sở, nền tảng quyết định đến sự thành công của nhà nghiên cứu.
Trả lờiXóaĐộc lập. tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân tộc. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là khẩu hiệu hành động cùa dân tộc Việt Nam đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Vì thế. Hồ Chí Minh không chỉ là Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
Trả lờiXóaXuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy và Người cho đó là “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.
Trả lờiXóaTrong các bậc thang giá trị tinh thần, Việt Nam đề cao chữ Nhân, kết hợp chặt chẽ Nhân với Nghĩa, Nhân với Đức, bất nhân bất nghĩa đồng nghĩa với thất đức. Chữ Phúc cũng đứng hàng đầu bảng giá trị đời sống, người ta khen nhà có phúc hơn là khen giầu, khen sang.
Trả lờiXóađây là nội dung rất hay
Trả lờiXóa