Khái
niệm văn hóa, nền văn hóa và nền văn hóa XHCN
Khái
niệm văn hóa, nền văn hóa
-
Văn hóa là một khái niệm đa nghĩa
Từ xa xưa, hai từ văn hóa đã sớm xuất hiện trong
ngôn ngữ loài người, đặc biệt ở những quốc gia được coi là cái nôi của văn minh
nhân loại.
+ Ở phương Đông, từ văn hóa xuất hiện rất sớm trong
ngôn ngữ Trung Quốc. Ngay từ trước công nguyên, ở đời Tây Hán, trong bài “Chi
Vũ” sách Thuyết Uyển, Lưu Hương đã viết “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước
dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực”. Phàm khi đã dùng vũ lực thì không khuất
phục nổi, dùng văn hóa không thay đổi được thì sau đó sẽ “bị suy kiệt”. Như
vậy, văn hóa được dùng để đối lập với vũ lực.
+ Ở phương Tây, trong nền văn minh cổ đại Hy Lạp, từ
văn hóa (cultura) có nghĩa là trồng trọt cây cối, sau dần dần biến thành nghĩa
gieo trồng trí tuệ (tinh thần) con người.
Có
2 loại trồng trọt: trồng trọt ngoài đồng
Trồng trọt tinh thần ( giáo dục bỗi dưỡng con
người- trồng người)
Văn hóa gắn liền với quá trình lao
động của con người để tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần, với quá trình
nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo con người.
Dù
phương Đông hay phương Tây, văn hóa đã mang ý nghĩa giáo hóa con người
+ Việt Nam: Hiện nay, khoa học về
tiếng Việt cổ chưa cung cấp những tư liệu đầy đủ về tiếng nói của cha ông từ xa
xưa, nhưng chúng ta cũng có thể biết rằng cách chúng ta hơn 600 năm, trong bài
Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã tuyên bố: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn
xưng nền văn hiến đã lâu”. Từ “văn hiến” mà Nguyễn Trãi dùng ở đây, về một khía
cạnh nào đó, đồng nghĩa với hai từ “văn hóa”
Từ
những phân tích trên có thể nói rằng: tư duy nhân loại đã sớm quan tâm đến hoạt
động văn hóa. Sự quan tâm đó ngày càng trở nên sâu sắc.
+ Quan điểm Mácxít:
Để tìm hiểu cội nguồn của
văn hoá phải đặt nó trong quá trình hình thành loài người. Toàn bộ ý kiến của
Ph.Ăngghen về nguồn gốc loài người được trình bày trong bài Tác dụng của lao
động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người, là một phần trong tác phẩm
Biện chứng của tự nhiên. Tư tưởng chủ đạo trong suốt bài viết của ông là
"lao động đã sáng tạo ra bản thân con người" . Nhưng lao động ở đây
không chỉ là lao động chân tay thuần tuý mà chủ yếu là lao động sáng tạo. Ph.
Ăngghen so sánh phương thức kiếm sống của loài vượn với lao động của xã hội
loài người, "Đàn vượn chỉ biết ăn hết sạch lương thực sẵn có trong khu vực
mà điều kiện địa lý hoặc là sự kháng cự của đàn vượn bên cạnh đã hạn định cho
chúng" . Nói cách khác, loài vượn không biết tự tạo ra thức ăn cho mình mà
chỉ ăn những thứ có sẵn trong tự nhiên. Ph.Ăngghen gọi phương thức kiếm ăn của
loài vượn là "kinh tế chiếm đoạt". Ông nhận định "Nhưng tất cả
những cái đó vẫn chưa phải là lao động, theo đúng ý nghĩa của nó. Lao động bắt
đầu với việc chế tạo ra công cụ" . Như vậy, chính lao động sáng tạo mới là
động lực chính tác động vào quá trình chuyển biến từ vượn thành người và đó
cũng là cội nguồn của văn hoá, hay có thể nói, lao động sáng tạo là bản chất
của văn hóa.
+ Lao động sáng tạo của con người thể hiện ở cả hai lĩnh vực sản
xuất cơ bản của xã hội (sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần). Vì vậy, văn
hoá theo nghĩa rộng gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần.
Thông
qua quá trình sản xuất vật chất tạo ra văn hóa vật chất
Sản xuất tinh thần tạo ra văn hóa tinh thần
-
Qua những phân tích trên,có thể hiểu Văn
hóa theo hai nghĩa
Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong
quá trình lịch sử của mình; biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng
thời kỳ lịch sử nhất định.
+ Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con
người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất.
+ Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý
luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh
thần của con người.
+ Việc phân loại đó, tùy thuộc vào tiêu chí cơ bản
mục đích của việc sáng tạo ra các giá trị văn hóa ấy là nhằm mục đích thỏa mãn
loại nhu cầu tiêu dùng nào (vật chất hay tinh thần) của con người. Tuy nhiên,
sự phân loại này cũng hoàn toàn có tính chất tương đối. Bởi chính các hoạt động
tiêu dùng để thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, tự nó đã mang tính
chất tinh thần, tính nhân văn. Trong khi các hoạt động tiêu dùng thỏa mãn các
nhu cầu tinh thần cũng được xem xét không tách rời và chịu sự chi phối, tác
động của các nhu cầu tiêu dùng có tính vật chất. Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa xã
hội khoa học nghiên cứu văn hóa XHCN chủ yếu với tính cách là các giá trị văn
hóa tinh thần.
Theo
nghĩa hẹp, văn hóa là sản phẩm tinh thần
của con người, văn hóa tinh thần bao gồm các lĩnh vực: văn hóa nghệ thuật, khoa
học giáo dục, triết học, đạo đức, quan niệm thẩm mỹ.
Theo
UNESCO - Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị bao gồm các mặt tình cảm, tri
thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Văn hóa không thuần túy bó hẹp trong hoạt
động sáng tạo nghệ thuật, mà còn bao hàm cả phương thức sống, những quyền cơ
bản của con người, truyền thống, tín ngưỡng
- Văn
hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động mọi mặt của cuộc sống, của mỗi cá
nhân và các cộng đồng, đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong
hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mính” [Thông tin UNESCO, tháng 8/1998].
Nói tóm lại, nói tới
văn hóa là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực thuộc bản
chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hóa có mặt trong mọi
hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và sinh hoạt
tinh thần của xã hội.
Lưu ý:
Từ sự phân tích trên, khi tìm hiểu khái niệm văn hoá cần lưu
ý a) văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì không do
con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hoá. Do vậy, văn hoá là đặc
trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn
bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. b) văn hoá xuất hiện là
do sự thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người với tự nhiên, là
sự thích nghi có sáng tạo, phù hợp với chân, thiện, mỹ, nên văn hoá cũng là kết
quả của sự thích nghi ấy. c) văn hoá bao gồm
cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ không chỉ riêng có tinh thần mà
thôi. d) Với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức con người, nên sự
phát triển của văn hoá bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính
trị của một xã hội nhất định. Chính vì vậy, văn hoá trong xã hội có giai cấp
bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Hỏi:
Phân biệt văn hóa với văn minh?
Văn minh là nền văn hóa có đặc trưng
riêng, tiêu biểu cho một xã hội rộng lớn, một thời đại hay cho cả nhân loại
Ví dụ: văn minh Ai Cập, văn minh nhân loại
-
Văn hóa có các tính chất sau: tính nhân
loại, tính giai cấp, tính dân tộc, tính quốc tế
(
sinh viên tự nghiên cứu)
-
Khái
niệm nền văn hóa
+ Nói đến văn hoá là nói đến khía cạnh ý thức hệ của văn hoá,
tính giai cấp của văn hoá và trên cơ sở đó hiểu rõ sự vận động của văn hoá
trong xã hội có giai cấp. Với cách tiếp cận như vậy có thể hiểu: Nền văn hoá là biểu hiện cho toàn bộ
nội dung, tính chất của văn hoá, được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh
tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống
trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách,
pháp luật quản lý các hoạt động văn hoá.
Với ý nghĩa này, có thể
khẳng định, mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, con người sáng tạo, hưởng thụ các
giá trị văn hóa theo các cách thức, phương tiện, nội dung khác nhau. Mọi nền
văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản
chất của giai cấp cầm quyền.
Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hoá, thì chính trị
là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của một nền văn hoá. Nền văn hoá của
bất cứ thời kỳ nào của lịch sử cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di
sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới trên cơ sở hệ tư tưởng
của giai cấp cầm quyền. Vì vậy, bất kỳ nền văn hoá nào trong xã hội có giai cấp
cũng đều mang dấu ấn của giai cấp thống trị xã hội đó.
+ Văn hóa hình thành và
phát triển trong những cộng đồng người khác nhau. Khi xã hội hình thành dân tộc
thì văn hóa mang tính chất dân tộc đậm nét. Tính dân tộc là một thuộc tính đặc
trưng của vă hóa, phản ánh mối quan hệ giữa văn hóa và dân tộc. Thể hiện trong
bản sắc độc đáo về ngôn ngữ, phong tục tập quán, phương thức tổ chức đời sống
cộng đồng… của dân tộc.
b. Khái
niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Trong các tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen không dành
riêng một tác phẩm để trình bày hệ thống các quan điểm của mình về văn hoá.
Nhưng toàn bộ tư tưởng của các ông về vấn đề này được thể hiện rất sâu sắc
thông qua hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về con người và xã hội. Kế
thừa và phát triển quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về văn hoá và
vai trò của văn hoá trong công cuộc xây dựng xã hội mới, từ thực tiễn công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục bổ sung và phát triển những vấn
đề lý luận về xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, hình thành nên hệ thống lý
luận về nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, bản chất của văn hoá là sáng tạo, là sự kết
tinh năng lực bản chất con người. Văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy
những năng lực bản chất con người gắn với những hoạt động sống của họ, làm cho
con người trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Những nội dung đó cũng là mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hiểu theo góc độ này thì chủ nghĩa xã hội là chế độ
xã hội mang những đặc trưng của văn hoá, C.Mác khái quát mỗi bước con người
tiến đến văn hoá là mỗi bước con người tiến đến tự do. Đến V.I.Lênin, tư tưởng
đó đã được diễn đạt cụ thể hơn khi ông đưa ra luận điểm về nền văn hoá xã hội
chủ nghĩa do nhân dân lao động xây dựng "Văn hoá vô sản = chủ nghĩa cộng
sản" . Như vậy, xét trên phương diện chung nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin quan
niệm bản chất văn hoá xã hội chủ nghĩa
chính là chủ nghĩa cộng sản, xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây
dựng xã hội cộng sản
Còn về phương diện lịch
sử, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ra
đời là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đã hình thành.
V.I.Lênin viết "Văn hoá vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải
do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản phát minh ra. Văn
hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà
loài người tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn
địa chủ và xã hội của bọn quan liêu" .
Chế độ mới xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan
trọng là tiền đề chính trị (giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã giành
được chính quyền) và tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất chủ yếu được thiết lập). Từ hai tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát triển trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hoá tinh thần và nền văn hoá xã hội
chủ nghĩa được từng bước xây dựng. Nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa là kết quả sự phát triển liên tục của các nền văn hoá,
nó thể hiện trình độ phát triển cao của loài người
+ Nền văn hóa XHCN là một tập hợp các phương thức, cơ chế, các tổ
chức và thiết chế xã hội trong hoạt động sáng tạo, hưởng thụ các sản phẩm văn
hóa nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tinh thần của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn xã hội, trên cơ sở hệ tư tưởng Mác –Lênin, chế độ dân
chủ XHCN và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trên nền văn hóa XHCN nhân dân lao
động là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ mọi giá trị văn hóa.
Theo nghĩa này, nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển là sự phủ định biện chứng
đối với các nền văn hóa đã xuất hiện trong lịch sử, đối với các giá trị văn hóa
và nền văn hóa của từng quốc gia dân tộc, mà ở đó diễn ra cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Sự ra đời, phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, theo đó, còn
là sản phẩm của quá trình tiếp biến sáng tạo đối với các giá trị văn hóa chung,
phổ biến của nhân loại hướng vào mục đích xây dựng, phát triển nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa và của chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung… trong mỗi quốc gia dân
tộc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của quốc gia dân tộc đó.
+
Nền
văn hóa XHCN có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một
là, hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết
định phương hướng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa
Mác Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giữ vai trò chủ
đạo, là nền tảng tư tưởng và quyết định phương hướng phát triển nội dung của
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng, ý thức hệ là cốt lõi của mọi nền văn
hoá. Do đó, giai cấp công nhân sau
khi giành thắng lợi lật đổ sự thống trị của CNTB, thiết lập nhà nước XHCN, giai
cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân
tố giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội – đó chính là chủ nghĩa Mác Lênin. Vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác Lênin đối với nền văn hoá
xã hội chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân lao động thực sự trở
thành chủ thể tự giác và hưởng thụ văn hoá của xã hội mới. Đặc trưng này phản
ánh bản chất giai cấp công nhân và tính đảng của nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa
Hai
là, nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc.
Trong xã
hội tư bản, giai cấp tư sản đã "tước đoạt" các giá trị văn hoá của
quần chúng lao động, biến những giá trị văn hoá ấy thành tài sản của giai cấp
thống trị. Chính điều này đã khiến cho quần chúng tách biệt với văn hoá. Trong
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá
không còn là đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Công cuộc cải
biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội từng bước tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để đông đảo nhân dân tham
gia xây dựng nền văn hoá mới và hưởng thụ những giá trị của nền văn hoá đó. Vì
vậy, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi.
Nền văn hóa XHCN là nền
văn hóa của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Nền văn hóa XHCN là nền
văn hóa của dân, do dân, vì dân. Xây
dựng nền văn hóa XHCN là một lĩnh vực trong sự nghiệp chung của giai cấp công
nhân và cả dân tộc. Phát triển văn hóa phải gắn liền và phục vụ sự nghiệp xây
dựng CNXH, phát triển con người vì lợi ích của nhân dân lao động. Nó phản ánh,
bảo vệ và thống nhất biện chứng với nền kinh tế và nền dân chủ XHCN.
Trong CNXH, nhân dân
lao động không chỉ là người chủ tập thể của mọi giá trị văn hóa, mà còn là
người chủ chân chính sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, những giá trị đó nhằm
mục đích hoàn thiện nhân cách con người, thúc đẩy họ vươn tới chân – thiện –
mỹ. Trong XHCN, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là
chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội tạo tiền đề vật chất, tinh thần để
đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền văn hóa mới.
Nền văn hóa XHCN còn
đảm bảo tính dân tộc sâu sắc; văn hóa XHCN một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho
từng dân tộc bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc mình mặt khác
cũng tiếp nhận những tinh hoa văn hóa thế giới làm cho nền văn hóa của dân tộc
mình trở nên phong phú, đa dạng hơn.
Ngoài ra, các nước có nhiều dân tộc anh em cũng tạo điều kiện để văn hóa riêng
của từng dân tộc được bảo tồn, thể hiện tính dân tộc trong nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa.
Ba
là,
Văn hóa của bất kỳ dân tộc nào cũng phát triển theo quy luật kế thừa. Tính kế
thừa là biểu hiện cụ thể của quy luật phủ định của phủ định trong văn hóa.
Không kế thừa không có sự phát triển của văn hóa. Văn hóa XHCN mang tính kế
thừa, tính kế thừa của mỗi dân tộc bao gồm kế thừa các giá trị văn hóa truyền
thống, đồng thời cũng bao hàm sự kế thừa đối với các giá trị văn hóa của các
dân tộc khác trên thế giới thông qua giao lưu và hội nhập văn hóa. Sự kế thừa
và sáng tạo của nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa luôn mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của
thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc.
Bốn
là, nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự
giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức Đảng Cộng
sản, có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa không hình thành một cách tự phát mà được hình thành một cách tự giác, có
sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công
nhân.
Trong sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa XHCN phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng lớn cho sáng tạo cá
nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung phong phú, đa
dạng… Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm lạc hậu, phản động
phá hoại hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và sự nghiệp xây dựng CNXH. Cần phải có sự lãnh đạo, định hướng của Đảng
trong quá trình xây dựng văn hóa XHCN và đấu tranh chống lại những biểu hiện
lạc hậu, lệch lạc trong văn hóa.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định trước
tiên đối với việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa không hình thành và phát triển một cách tự phát, trái lại, nó phải được
hình thành và xây dựng một cách tự giác, có sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản và vai trò quản lý của Nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội,
đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa sẽ dẫn đến làm mất phương hướng chính trị
của nền văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền
văn hóa XHCN
-
Thứ
nhất, việc xây dựng nền văn hóa XHCN xuất phát từ tính
triệt để, toàn diện của cách mạng XHCN.
Cách
mạng XHCN không chỉ dừng ở việc làm cách mạng để thay đổi phương thức sản xuất
cũ của tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất mới XHCN ra đời mà tính triệt
để thể hiện ở cả việc xây dựng nền văn hóa XHCN- thay đổi bản chất của ý thức
xã hội, xây dựng ý thức xã hội mới phù hợp với sự thay đổi về chất của tồn tại
xã hội (với việc xác lập quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động).
Ngoài
ra, cách mạng XHCN còn diễn ra trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống
xã hội đó là chính trị, kinh tế, tư tưởng – văn hóa.
Cách
mạng trên lĩnh vực chính trị biểu hiện với việc thiết lập nhà nước pháp quyền
XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN.
Cách
mạng trên lĩnh vực kinh tế là tạo ra một phương thức sản xuất mới là sự sở hữu
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Cách
mạng trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa là trực tiếp xây dựng nền văn hóa XHCN –
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc – xây dựng một kiểu nhân cách mới XHCN, tạo
ra những khả năng và điều kiện để con người phát triển toàn diện.
-
Thứ
hai, xây dựng nền văn hóa XHCN là tất yếu trong quá trình
cải tạo tâm lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải
phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc
hậu
Đây
là yêu cầu tất yếu của quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Mặt
khác, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa còn là mật yêu cầu cần thiết trong
việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng,
sáng tạo và hưởng thụ vặn hóa tinh thần. Đó là một nhiệm vụ cơ bản, phức tạp,
lâu dài của quá trình xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Về thực chất,
đây cũng chính là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hóa, đấu tranh giữa
hai hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng vô sản trong quá trình phát triển xã hội.
- Thứ ba,
xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình
độ văn hóa cho quần chúng nhân dân lao động, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn
hóa. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo
nàn lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của quần chúng.
Xây dựng nền văn hóa
XHCN là để phục vụ cho đời sống văn hóa của chính quần chúng nhân dân lao động,
vì thế để quần chúng nhân dân có thể hưởng thụ được nền văn hóa đó thì bản thân
trình độ văn hóa của nhân dân phải được nâng cao hơn. Trong quá trình chỉ đạo
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga, V. I. Lênin chỉ ra ba
kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, đó là bệnh kiêu ngạo cộng sản, nạn mù chữ, nạn hối
lộ và đồng thời Người cũng khẳng định rằng: chỉ có làm cho tất cả mọi người đều
phải có văn hoá, phải nâng cao trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân thì mới
có thể chiến thắng được những kẻ thù đó một cách căn bản.
Ở nước ta hiện nay, khoảng cách trình độ dân trí của
nhân dân giữa miền núi và miền xuôi, giữa thành thị và nông thôn còn lớn vì vậy
yêu cầu cần phải nâng cao trình độ dân trí của nhân dân ở miền núi, nông thôn,
những nơi có điều kiện vật chất còn kém để tạo sự bình đẳng, rút ngắn khoảng
cách trình độ dân trí, văn hóa. Giúp nhân dân nâng cao hơn trình độ văn hóa của
bản thân, góp phần xây dựng nền văn hóa XHCN.
-
Thứ
tư,
xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu khách
quan: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Văn
hóa là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển ngày
càng đầy đủ, toàn diện cho con người cả về thể lực, trí lực và nhân cách, hướng
tới cái đúng, cái tốt đẹp ngày càng cao hơn, làm cho mỗi cá nhân và cộng đồng
ngày một tiến bộ văn minh. Văn hóa nâng cao chất lượng sống của con người, kết hợp
hài hòa giữa điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần. Là hệ điều tiết của sự
phát triển, văn hóa phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố
khách quan và chủ quan, các điều kiện bên trong và bên ngoài. Văn hóa đóng vai
trò điều tiết tinh thần cho sự phát triển nền kinh tế. Do đó, nó đảm bảo cho sự
phát triển kinh tế được hài hòa, cân đối bền lâu. Văn hóa làm cho nhân dân các
dân tộc hiểu biết, gần gữi nhau hơn, góp phần mở rộng giao lưu, hợp tác nhiều
mặt trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Văn hóa góp phần bảo vệ môi trường
sinh thái, cổ vũ xây dựng một cuộc sống hài hòa với thiên nhiên.
Văn hóa là động lực của sự phát triển, văn hóa XHCN là động
lực vì nó giải phóng và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người trong mọi
lĩnh vực: văn hóa định hướng và làm nền cho sự lựa chọn và xác định đúng mô
hình phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tài nguyên… Hàm lượng trí tuệ, hàm
lượng văn hóa trong các lĩnh vực đời sống càng nhiều bao nhiêu thì khả năng
phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực và bền vững bấy nhiêu.
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 9
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ XI “về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước ”, Đảng ta một lần nữa khẳng định
quan điểm “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội”.
a) Những nội dung cơ bản
của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Một
là,
cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình
thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.
Quần
chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần, trí lực, tư tưởng... càng
có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí
thức mới trở thành nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Tiếp
tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống
quản lý giáo dục. Phát huy tư duy khoa học và sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu
của học sinh và sinh viên, đề cao năng lực tự học tự hoàn thiện học viến và tay
nghề. Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng hình thức chính quy và
không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã
hội học tập”.
Chăm
lo phát triển giáo dục mầm non. Củng cố thành tựu xóa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học. Đẩy mạnh tiến bộ phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng ngân sách
nhà nước cho giáo dục, đào tạo theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Hiện đại hóa
một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ
lao động xã hội. Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét
về chất lượng và hiệu quả đào tạo. Từng bước xúc tiến việc nối mạng thông tin
quốc tế ở trường học. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện
cho người nghèo có cơ hội học tập.Tăng ngân sách nhà nước cho việc cử người đi
đào tạo ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.
Song
song với nâng cao trình độ dân trí là phải giải quyết dứt điểm các vấn đề bức
xúc như cải tiến chế độ thi cử, khắc phục khuynh hướng “thương mại hóa” giáo
dục, quản lý chặt chẽ việc cấp văn bằng công nhận học hàm, học vị; chấn chỉnh
công tác quản lý hệ thống trường học cả công lập và ngoài công lập.
Công
tác nâng cao trình độ dân trí hướng tới xây dựng đội ngũ trí thức cho xã hội
mới.
Hai là, xây dựng con người mới phát
triển toàn diện.
Nhân
tố con người là toàn bộ những yếu tố nói lên khả năng, vai trò tiềm ẩn của con
người có thể được huy động, trở thành các hoạt động tích cực, sáng tạo của con
người thúc đẩy sự phát triển của đời sống xã hội, đáp ứng các yêu cầu phát
triển xã hội.
Con
người là sản phẩm của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã sáng tạo
ra lịch sử. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy trong mọi thời đại, sự hình thành và
phát triển con người gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội.
Khi giai cấp công nhân
trở thành giai cấp cầm quyền, thì việc xây dựng con người mới đáp ứng nhu cầu
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành một yêu cầu tất yếu. Do đó,
xây dựng con người mới phát triển toàn diện của xã hội mới là một trong những
nội dung cơ bản của văn hóa vô sản, của nền văn hoà xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết hội nghị lần
thứ 9 khóa XI, Đảng ta khẳng định mục tiêu hàng đầu của xây dựng văn hóa xã hội
chủ nghĩa hiện nay là “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện”, trog mục tiêu này, Đảng ta xác định “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu
sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”.
-
Ba là, Xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa.
Lối sống mới xã hội chủ
nghĩa là một đặc trưng có tính nguyên tắc của xã hội xã hội chủ nghĩa và việc
xây dựng lối sống mới tất yếu trở thành một nội dung của của nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa.
Lối sống mới xã hội chủ
nghĩa được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của nó, đó là: chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo;
nguyên tắc phân phối theo lao động; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; chủ
nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; xóa
bỏ tình trạng bất bình đẳng dân tộc, giới tính, thể hiện công bằng, mở rộng dân
chủ...
Đảng ta hiện nay xác
định “Xây dựng và phát huy lối sống "Mỗi
người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; hình thành lối sống có ý thức
tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi
trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao
trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội”
-
Bốn
là, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Gia
đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của
con người, một thiết chế văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và
phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi
dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên.
Nếu
như văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra, nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình,… thì gia đình không
chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội mà điều quan trọng
gia đình còn là một giá trị văn hóa xã hội.
Gia
đình có các chức năng là tái sản xuất con người, duy trì và phát triển giống
nòi; chức năng kinh tế của gia đình;
chức năng tổ chức đời sống gia đình; chức năng giáo dục của gia đình; chức năng
thỏa mãn các nhu cầu tâm lý, tình cảm tâm lý- sinh lý.
Gia đình văn hóa xã hội
chủ nghĩa từng bước được xây dựng cùng với tiến trình phát triển của công cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng và văn hóa có tác động trực tiếp và nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa có nhiệm vụ quyết định nhất đến việc xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội
chủ nghĩa.
Thực chất của việc xây
dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ nghĩa là nhằm góp phần xây dựng nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này xuất phát từ mối quan hệ giữa gia đình và
xã hội. Gia đình là "tế bào" của xã hội, mỗi gia đình hòa thuận, hạnh
phúc, ổn định sẽ góp phần cho sự phát triển ổn định lành mạnh của xã hội; và
ngược lại, xã hội phát triển ổn định, lành mạnh sẽ lại tạo điều kiện cho gia
đình ấm no, hạnh phúc. Hơn thế nữa, xét về mối quan hệ lợi ích thì trong chủ
nghĩa xã hội, lợi ích của gia đình và lợi ích của xã hội là cơ bản có sự phù
hợp.
Gia
đình trong XHCN là gia đình một vợ một chồng được xây dựng trên cơ sở quan hệ
hôn nhân mới – tự do và tiến bộ. Hôn nhân tự do và tiến bộ dưới CNXH là hôn
nhân bình đẳng, tự nguyện xuất phát từ quan điểm tình yêu chân chính giữa hai
bên nam nữ; gia đình một vợ một chồng trong XHCN không còn là sản phẩm của sự
tính toán và không bị lợi ích gia cấp như gia đình dưới chế độ tư hữu, tạo điều
kiện để giải phóng phụ nữ, tạo lập quan hệ bình đẳng trong lĩnh vực hôn nhân.
Gia
đình trong XHCN là quan hệ giữa các thành viên trong gia đình là quan hệ bình
đẳng. Bình đẳng trong gia đình XHCN là quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa
cha mẹ với các con và giữa anh chị em trong một gia đình dù trai hay gái. Bình
đẳng giữa các thành iên không đồng nghĩa với việc làm đảo lộn trật tự của các
mối quan hệ trong gia đình; trái lại đó là sự thể hiện tinh thần và thái độ của
các thành viên muốn được tôn trọng như nhau trong việc giải quyết các vấn đề
của cuộc sống gia đình, trong việc thực hiện và bảo vệ các nhu cầu lợi ích của
cá nhân và trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa gia đình và xã hội.
b) Phương thức xây dựng
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Để thực hiện được những
nội dung chính yếu của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải thực hiện các
phương thức cơ bản sau đây:
Thứ
nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân
trong đời sống tinh thần của xã hội.
Quá trình tư tưởng diễn
ra không ngừng cùng với quá trình sản xuất vật chất. Trong đời sống văn hóa
tinh thần hiện thực, quá trình đó diễn ra với tất tính đa dạng, phức tạp của
nó. Chính vì thế, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân
với tư cách là giai cấp cầm quyền; phải bằng mọi phương pháp thông qua đội ngũ
những nhà tư tưởng và các thiết chế tư tưởng của mình để tác động, chi phối các
quan hệ tư tưởng, quá trình tư tưởng nhằm giữ vững, tăng cường vai trò chủ đạo
của hệ tư tưởng của mình trong đời sống tinh thần xã hội, bởi "những tư
tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của gia cấp
thống trị".
Xây dựng nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của giai cấp công nhân thông qua Đảng
Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng và phát triển hệ tư tưởng
xã hội chủ nghĩa - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong xã hội. Do đó, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng
giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần xã hội là phương thức quan trọng để
xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là phương thúc cơ bản để giữ vững
đặc trưng, bản chất của nền văn hóa đó. Phương thức này được tiến hành thông
qua việc truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong các tầng lớp nhân
dân bằng những phương pháp và hình thức thích hợp.
Thứ
hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý
của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.
Sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với mọi hoạt động văn hóa
là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Phương thức này được coi là sự đảm bảo
về chính trị, tư tưởng để nền văn hóa xây dựng trên nền tảng của hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân đi đúng quỹ đạo và mục tiêu xác định. Theo các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất đây là sự tăng cường chuyên chính vô
sản trong hoạt động văn hóa. Thiết lập chuyên chính vô sản thì mới có tiền đề
chính trị cho việc xây dựng nền văn hóa vô sản. Giữ vững và không ngừng tăng
cường chuyên chính vô sản là sự đảm bảo cho thắng lợi của quá trình xây dựng
nền văn hóa vô sản.
Đảng lãnh đạo xây dựng
nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối, chính sách văn hóa của mình và sự lãnh
đạo của Đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật, chính sách. Nhà
nước thực hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan điểm, chủ trương
của Đảng Cộng sản.
Để tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, Đảng ta xác định “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo
hướng vừa bảo đảm để vǎn hóa, vǎn học - nghệ thuật, báo chí phát triển đúng
định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá
nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn;
khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do
sáng tạo.
Phải coi trọng xây dựng vǎn hóa từ trong Đảng, trong
bộ máy nhà nước, mà nội dung quan trọng là học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh.” “Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh
việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về
quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực
tiễn Việt Nam”.
Thứ
ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp việc kế
thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa của văn hoa nhân loại.
Nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa không hình thành từ hư vô, trái lại nó được hình thành trên cơ sở kế thừa
những giá trị văn hóa của dân tộc. Văn hóa dân tộc là nền móng và trên cơ sở đó
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, V. I. Lênin đã từng nói: Văn hóa vô sản là
sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích lũy
được, "đó là con đường đang và sẽ tiếp tục đưa văn hóa vô sản, cũng như
chính trị kinh tế học do Mác hoàn chỉnh".
Sự gắn kết giữa giữ
gìn, kế thừa văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại với quá trình
sản sinh giá trị mới, tạo nên sự thống nhất biện chứng của hai mặt giữ gìn và
sáng tạo văn hóa. Đây được coi là phương thức nhằm xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa phong phú, đa dạng. Cùng với quá trình này là những phương pháp thích
hợp nhằm đưa những giá trị văn hóa vào đời sống xã hội để đông đảo nhân dân
được hưởng thụ văn hóa do mình sáng tạo ra.
Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các
hoạt động và sáng tạo văn hóa.
Trong tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao
động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Tuy nhiên, để phát huy
tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội
chủ nghĩa cần phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân
tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.
c. Xây dựng nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Theo quan điểm của Đảng
nền văn hóa mới mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và giữ vị
trí, vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng và hình
thành các mặt, các lĩnh vực, các yếu tố hợp thành đời sống tư tưởng, văn hóa ở
nước ta như: nền khoa học, giáo dục, nền đạo đức, văn hóa nghệ thuật…phù hợp và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội mang lại đời sống văn hóa tinh thần
phong phú, văn minh và lành mạnh cho nhân dân lao động.
Nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa ở nước là nền văn hóa của nhân dân, vì nhân dân, kế thừa các giá trị
truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại
và chứa đựng các giá trị mới của Chủ nghĩa xã hội.
Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) đã xác định phương hướng và đặc
trưng của văn hóa Việt Nam
là : Dân tộc, khoa học, đại chúng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 3 (năm 1960)
xác định: Cách mạng tư tưởng văn hóa là một trong ba cuộc cách mạng (cách mạng
quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng văn hóa – tư tưởng).
Đại hội lần thức VII (năm 1991) Đảng ta lại xác định: “Nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Trong
quá trình đổi mới, hội nhập để giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa với chính
trị và kinh tế, đồng thời tránh nguy cơ “diễn biến hòa bình”, “tụt hậu xa hơn
về kinh tế”. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) ra đời thể hiện rõ nhận thức
và quyết tâm, trách nhiệm của Đảng ta về việc xây dựng chấn hưng nền văn hóa
nước nhà. Nghị quyết Trung ương 5 xác định năm quan điểm lớn chỉ đạo quá trình
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, đó là:
-
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
-
Nền văn hóa của chúng ta xây dựng là nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
-
Nền văn hóa Việt Nam
là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
-
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự
nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò
quan trọng.
-
Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và
phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, cần có ý thức cách mạng
và sự kiên trì, thận trọng.
Sau này Ban Chấp hành Trung ương đã
ban hành nhiều Nghị quyết có ý nghĩa bổ sung như: Nghị quyết Trung ương 5 về
nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận; kết luận Trung ương 6 về giáo
dục – đào tạo và khoa học công nghệ; Nghị quyết Trung ương 7 về tôn giáo, văn
nghệ, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất bản; Nghị quyết hội nghị lần thứ 9
khóa XI “về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước ”
Gần đây, tại Đại hội
lần thứ XI Đảng ta khẳng định: “phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát
triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng
chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Tăng đầu
tư của Nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát
triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự
là nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động
giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính; xây dựng
gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện bình đẳng giởi, chăm sóc và bảo
vệ trẻ em. Tiếp tục củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đưa phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết
thực, hiệu quả… bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống,
cách mạng; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa”.
Như vậy, một lần nữa
tại Đại hội lần thứ XI Đảng ta đã khẳng đinh rõ hơn về bản chất của nền văn hóa
Việt Nam cũng như mục tiêu, động lực, nội dung xây dựng nền văn hóa Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Là người chiến sĩ an ninh nhân dân chúng ta cần nhận thức rõ được những vấn đề về văn hoá có liên quan đến việc đảm bảo an ninh trật tự để từ đó tạo thuận lợi cho việc nắm bắt tình hình cũng như chủ động trong công tác phòng ngừa và đấu tranh. Để xây dựng được nền văn hoá xã hội chủ nghĩa thì cũng cần những con người xã hội chủ nghĩa, đủ tri thức và bản lĩnh chính trị. Nền văn hoá Việt Nam có nhiều ưu điểm và hạn chế, vì vậy chúng ta cần phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế để đưa nền văn hoá nước nhà phát triển, tiến lên nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Trả lờiXóaỞ Việt Nam hiện nay, một bộ phận không nhỏ thanh niên đang bị ảnh hưởng quá nhiều bởi các nền văn hóa nước ngoài, chạy theo nó mà đang dần đánh mất đi bản sắc văn hoá dân tộc mình. Trước thực trạng này, Đảng và Nhà nước cần tăng cường hơn nữa các chính sách,biện pháp cụ thể về xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt cần tập trung vào giới trẻ bởi họ là tương lai của đất nước, sự thành công của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa phải nhờ vào lực lượng đầy tiềm năng này.
Trả lờiXóaQua bài học, chúng em nhận thức: Xây dựng văn hóa XHCN là trách nhiệm của toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong thời đại ngày nay thế hệ trẻ cần tích cực, chủ động hơn nữa trong việc giữ gìn, bảo lưu văn hóa truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trả lờiXóaQua bài học, chúng em nhận thức: Xây dựng văn hóa XHCN là trách nhiệm của toàn dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong thời đại ngày nay thế hệ trẻ cần tích cực, chủ động hơn nữa trong việc giữ gìn, bảo lưu văn hóa truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trả lờiXóaQuan điểm về văn hóa
Trả lờiXóaQuan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn hóa của người Việt, trình bày lịch sử văn hóa Việt Nam chỉ như là lịch sử văn minh của người Việt.
Quan niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân tộc Việt Nam cư trú trên mảnh đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không có văn hóa dân tộc/quốc gia.
Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân tộc/quốc gia, đây là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc người. Khái niệm dân tộc/quốc gia chỉ một quốc gia có chủ quyền, trong đó phần lớn công dân gắn bó với nhau bởi những yếu tố tạo nên một dân tộc. Quan niệm thứ ba này hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa Việt Nam, vì vậy nội dung về văn hóa Việt Nam sẽ được trình bày theo quan niệm thứ ba, văn hóa Việt Nam theo hướng văn hóa dân tộc
Việt Nam gồm 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc một sắc thái riêng, cho nền văn hóa Việt Nam là một sự thống nhất trong đa dạng. Ngoài văn hóa Việt-Mường mang tính tiêu biểu, còn có các nhóm văn hóa đặc sắc khác như Tà-Nùng, Thái, Chàm, Hoa-Ngái, Môn-Khmer, H’Mông-Dao, nhất là văn hóa các dân tộc Tây Nguyên giữ được những nét văn hóa truyền thống gắn bó với rừng núi tự nhiên.
Trả lờiXóaĐại hội IX, X, XI các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được khẳng định. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu về quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam là việc làm vô cùng cần thiết.
Trả lờiXóaXã hội nông nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thủy kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi.
Trả lờiXóa