Tôn giáo là một hình
thái ý thức – xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của điều kiện kinh tế
- xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo còn tồn tại và có
những biến đổi nhất định.
Việt
Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo, số lượng tín đồ tôn giáo chiếm
khoảng 25% dân số, trong thời gian vừa qua, vấn đề tôn giáo có nhiều ảnh hưởng
đến đời sống xã hội của nhân dân – có cả những ảnh hưởng tiêu cực và tích cực. Để
giải quyết tốt vấn đề tôn giáo trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn
giáo. Với tư cách là một cán bộ chiến sĩ công an tương lai các đồng chí phải phải
đứng trên lập trưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình giải quyết công
tác tôn giáo và nắm chắc quan điểm, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo.
a. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng
xã hội đã tồn tại hàng nghìn năm. Kể từ khi xuất hiện, tôn giáo đã trở thành một
yếu tố tham gia vào các quá trình xã hội, ảnh hưởng đến nhiều phương diện của đời
sống con người. Tôn giáo đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, với
mong muốn tìm ra tiếng nói chung nhất về tôn giáo.Tuy nhiên đến nay,khái niệm
tôn giáo vẫn đang là vấn đề tranh cãi trong giới nghiên cứu. Định nghĩa về tôn
giáo phụ thuộc vào quan điểm và phương pháp tiếp cận của các nhà nghiên cứu.
- Thuật ngữ tôn giáo bắt nguồn từ tiếng Latinh “Religion” có
nghĩa là sự ràng buộc giữa cái hiện thực và cái hư ảo, siêu nhiên
- Có khá nhiều quan niệm về tôn giáo.
+ Các
nhà duy tâm thần học xem tôn giáo là sản phẩm có nguồn gốc siêu nhiên, nó
là sản phẩm “bẩm sinh” chứ không phải là kết quả của sự vận động xã hội. Tôn
giáo có vai trò sáng tạo ra loài người, xã hội, quy định hoạt động, quyết định
số phận của các cá nhân và xu hướng vận động của xã hội.
+ Những người theo chủ nghĩa vô thần: Thời
cổ đại, E-pi-quya phủ nhận sự can thiệp của thần thánh vào sự phát triển của tự
nhiên và số phận con người, xã hội. Con người muốn được hưởng tự do thì phải
thoát khỏi sự sợ hãi trước thần linh. Thời khai sáng Điđrô kịch liệt chống lại
tôn giáo, ông cho rằng tôn giáo là một trong hai sợi dây thắt cổ, muốn chống
lại sự áp bức phải cắt đi trước hết sợi dây tôn giáo.
+ Từ khi triết học Mác ra đời, chủ nghĩa vô thần chuyển sang một giai
đoạn mới, đó là chủ nghĩa vô thần khoa
học. Mác - Ăngghen chỉ rõ bản chất, nguồn gốc, chức năng của tôn giáo. Chủ
nghĩa Mác cho rằng “sự nghèo nàn của tôn
giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực vừa là sự phản kháng chống lại
sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức,
là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những
trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [C.Mác và
Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2004, tr. 570].
Theo quan điểm của Mác thì chính con người đã sinh ra tôn
giáo chứ không phải tôn giáo sinh ra con người. Tôn giáo giống như “thuốc
phiện” - bởi cả hai tác dụng của chất này: gây nghiện và giảm đau. Tôn giáo dễ
làm đầu óc nhân dân mụ mị, mê muội song nó cũng là “chất giảm đau” xoa dịu nỗi
thống khổ của nhân dân.
Tiếp đó trong tác phẩm “Chống
Đuyrinh”Ăngghen khẳng định “tất cả
mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con
người-những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ;chỉ là sự
phản ánh trong đó các lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng
siêu trần thế”
Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật - lịch sử, có thể
hiểu tôn giáo là:
“Tôn giáo là một hình
thái ý thức xã hội, đã tồn tại và phát triển cách đây hàng nghìn năm. Tôn giáo
phản ánh xã hội một cách hư ảo, được một bộ phận quần chúng tin theo, tôn thờ
theo những lễ nghi, lề luật chặt chẽ; nó còn là một thực thể xã hội được xác định
dựa trên các dấu hiệu: có giáo lý, giáo luật, giáo lễ, có hình thức tổ chức quản
lý và hình thành cộng đồng tín đồ và cơ sở vật chất nhất định ”.
-
Phân tích khái niệm:
+ Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phán ánh
xã hội một cách hư ảo
Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ phương diện
sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại
xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau, đó là ý thức chính trị, ý
thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học…
Ví dụ: Các hiện tượng sấm,
chớp, mây mưa được thần thánh hóa
Đạo Phật cho rằng vạn vật biến đổi theo chu trình bất
tận:sinh-trụ-dị-diệt, bất tận không có điểm khởi đầu không có điểm kết thúc,
giống như một vòng tròn luân hồi. Do vậy
chết không phải là hết mà là một sự tái sinh, đầu thai ở một kiếp khác.
Theo Công giáo, con người là do Chúa tạo ra. Con người có
hai phần, thể xác và linh hồn. Thể xác là tạo vật như mọi tạo vật khác, linh
hồn là phần sinh khí do Thiên chúa giáo truyền vào. Con người khi chết đi về
với cát bụi, linh hồn tồn tại vĩnh viễn.
+ Tôn giáo là một thực
thể xã hội
-
Các khái niệm có liên quan:
+
Tín
ngưỡng: Có nghĩa là sự ngưỡng mộ, niềm tìn đến mức sùng bái vào một hay một số
đấng siêu nhiên, lực lượng siêu tự nhiên nào đó và những sức mạnh có thể thu nhận
được từ các đấng siêu nhiên được tin tưởng, ngưỡng mộ đến mức sùng tín.
VD: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ các
vị anh hùng có công với dân tộc, cộng đồng…
Tín ngưỡng gồm có: tín ngưỡng dân tộc (truyền thống) là loại
hình tín ngưỡng của từng dân tộc hoặc quốc gia dân tộc, hoặc vùng miền, địa phương;
và tín ngưỡng tôn giáo là một loại hình tín ngưỡng phát triển đến trình độ cao,
thể hiện ở chỗ có hệ thống giáo lý, hệ thống tổ chức, lễ nghi và hệ thống cơ sở
vật chất phục vụ các sinh hoạt tôn giáo.
+ Mê tín dị đoan: Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông quá
mức, không dựa trên một cơ sở khoa học nào. Dị đoan là sự suy đoán một cách
nhảm nhí, tùy tiện, sai lệch những điều xảy ra trong cuộc sống. Mê tín dị đoan
là chỉ những hành động sai lệch quá mức, gây tổn hại cho cá nhân và cộng đồng,
được tạo ra bởi niềm tin mù quáng, nhảm nhí, mê muội… Đây là một biến tướng của
tín ngưỡng.
VD: bói toán, lên đồng, gọi hồn,chữa bệnh bằng gọi thầy
cúng, trừ tà ma…
??? Phân biệt: Tín ngưỡng tôn giáo
và Mê tín dị đoan?
- Giống: mê tín cũng có yếu tố niềm tin do đó nó dẽ xâm nhập
vào các hoạt động tín ngưỡng dân gian và tôn giáo để trục lợi
- Khác: Về căn bản, tôn giáo khác mê tín dị đoan. Niềm tin
tôn giáo bao gồm các giá trị chân, thiện, mỹ. Còn mê tín dị đoan hoàn toàn là một hiện tượng
tiêu cực phản văn hoá và phản văn minh
Như vậy, tín ngưỡng tôn giáo và mê tín dị đoan đều là niềm
tin vào những lực lượng siêu nhiên, là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh của
con người. Nhưng đây là các hiện tượng tâm linh có nội dung, hình thức, đặc
điểm và vai trò xã hội khác nhau, cần phải được phân biệt để có chính sách,
biện pháp phù hợp.
b. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội
Tín ngưỡng tôn giáo vẫn còn tồn tại lâu
dài trong CNXH, đó là một thực tế khách quan. Trong CNXH đang còn những cơ sở
cho sự nảy sinh, tồn tại của tín ngưỡng tôn giáo. Điều này được chủ nghĩa Mác
–Lênin khẳng định: về mặt phương pháp luận, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội thì ý thức xã hội thường lạc hậu, bảo thủ hơn so với tồn
tại xã hội, khi tồn tại xã hội thay đổi trong nhiều trường hợp ý thức xã hội
chưa kịp thay đổi. Hơn nữa, dưới CNXH nhất là trong thời kỳ quá độ, sự thay đổi
trong tồn tại xã hội đã rất mạnh mẽ, to lớn nhưng vẫn chưa đủ để tạo ra sự biến
đổi sâu sắc, triệt để trong lĩnh vực ý thức xã hội.
Có thể phân tích nguyên nhân tồn tại của tôn giáo dưới CNXH
trên các mặt cụ thể của đời sống xã hội như sau:
-
Nguyên nhân nhận thức:
+ Hiện thực khách quan vô cùng vô tận, tồn tại đa dạng phong
phú, chứa đựng nhiều vấn đề khoa học chưa thể làm rõ được.
Ngày nay, KHCN đã phát triển như vũ bão, sự ra đời của mạng
Internet, các mạng truyền thông, sự phát triển của khoa học công nghệ, sinh
học…Đặc biệt thế kỷ XX, con người đã bước ra khám phá các thiên thể trong hệ
mặt trời, không gian vũ trụ. Những thành tựu đó đã đưa nhân loại bước sang nền
văn minh trí tuệ. Nhưng sự hiểu biết của con người chỉ như một giọt nước trong
đại dương mênh mông. Bởi vậy cũng có những điều khoa học chưa lý giải nổi.
+ Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi nghiêm
trọng, còn có tác động và chi phối đời sống con người. Do vậy, tâm lý sợ hãi,
trông chờ, tin cậy vào thánh, thần, Phật…chưa thể gạt bỏ hết khỏi ý thức của
nhiều người trong xã hội.
+ Hơn nữa, trong quá trình xây dựng CNXH, trình độ dân trí
của nhân dân chưa thật cao, nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa
học chưa giải thích được. VD: hiện tượng chiêm tinh đoán trước tương lai của
con người, hay ở nước ta là hiện tượng của các nhà ngoại cảm đi tìm mộ liệt sĩ…
-
Nguyên nhân kinh tế
Trong CNXH, nhất là giai đoạn đầu của TKQĐ lên CNXH còn tồn
tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau của các giai tầng xã hội, sự bất bình
đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… vẫn là một thực tế.
Nền kinh tế XHCN trong TKQĐ vẫn theo cơ chế thị trường chứa
đựng nhiều cạnh tranh và mâu thuẫn.
Nếu như KTTT TBCN thuần túy là một nền kinh tế vì lợi nhuận
siêu ngạch cho nhà tư bản, cạnh tranh khốc liệt, thì KTTT ở các nước XHCN mang
những giá trị nhân văn, nhân đạo hơn với mục đích mang lại lợi ích cho số đông
nhân dân. Song đó vẫn là một nền kinh tế thị trường bởi vậy nó phải chứa đựng
những mâu thuẫn và bất bình đẳng. Do đó tôn giáo vẫn còn điều kiện phát triển.
Ngoài ra, quá trình vận động của nền KTTT cũng đã làm cho
các tệ nạn xã hội cũ và mới phục hồi, nảy sinh, làm thoái hóa, biến chất về đạo
đức, lối sống, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên; làm cho nạn buôn
lậu, tội phạm kinh tế… ngày càng gia tăng đặc biệt tham nhũng đã trở thành
“quốc nạn”…
VD: sự may rủi trong làm ăn. Nhiều người làm ăn may mắn mong
muốn may mắn hơn, còn những người không may thì đương nhiên sẽ muốn tránh xa
mọi rủi ro. Họ tìm đến và tin vào tôn giáo. Đầu năm, những người buôn bán hay
đi đến chùa cầu may, xin đức Phật từ bi phù hộ ăn nên làm ra, buôn đâu được
đấy.
-
Nguyên nhân tâm lý:
Tôn giáo tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu
trong tiềm thức của nhân dân, qua nhiều thế hệ trở thành một kiểu sinh hoạt văn
hóa, tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.
Như ở trên đã phân tích, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội thì ý thức xã hội bảo thủ hơn tồn tại xã hội, trong đó tôn
giáo lại là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất.
Mặt khác tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh
thần, ảnh hưởng khá sâu đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua
nhiều thế hệ đến mức trở thành phong tục, tập quán, một kiểu sinh hoạt văn hóa
tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.
-
Nguyên nhân chính trị - xã hội
+ Bên cạnh những thành tựu to lớn, các
nước XHCN cũng còn tồn tại những tiêu cực không nhỏ: tham ô, tham nhũng, thoái
hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ; tệ nạn xã hội phức tạp. Những hạn chế đó đã làm suy giảm
niềm tin của nhân dân.
+ Ở các nước XHCN, các thế lực thù địch
luôn lợi dụng tôn giáo để kích động quần chúng thực hiện mưu đồ chính trị. VD: ở Tây Nguyên (2/2001 và 4/2004),
các thế lực phương Tây đứng đầu là Mỹ đã chủ trương tách Tin lành người Thượng ra khỏi Tin
lành người Kinh để hình thành và phát triển “Tin lành Đềga”, mưu đồ kích động quần chúng gây rối, bạo động đòi
thành lập “Nhà nước Đềga tự trị”. Đây
là một chiêu bài trong “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của phương Tây.
+ Nỗi lo về chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai… cùng những
mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo còn tồn tại. Ngày nay nguy
cơ chiến tranh hạt nhân có khả năng bị đẩy lùi, nhưng những cuộc chiến tranh
cục bộ, xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo loạn lật đổ còn xảy ra ở
nhiều nơi. VD: Chiến tranh ở Irắc, Pakitxtan làm hàng trăm người thiệt mạng. Đặc
biệt nạn khủng bố đang là một mối đe dọa cho toàn nhân loại. VD: khủng bố 11/9
ở Mỹ.
Thiên tai, dịch bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới. VD: Sóng
thần ở Inđônêsia đến nay vẫn là một nỗi kinh hoàng. Hàng triệu tín đồ Thiên
chúa giáo đã tụ tập lại làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân. Các căn bệnh thế kỷ
vẫn chưa có thuốc chữa (ung thư, HIV). Nhiều bệnh nhân khi mắc bệnh đã tìm tới
tôn giáo cầu xin những phép màu sẽ cứu giúp họ.
-
Nguyên nhân văn hóa
Ở một mức độ nào đó, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có khả
năng đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần và có ý nghĩa giáo dục về ý thức cộng
đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Tôn giáo tồn tại lâu dài ở góc độ văn hóa,
nhất là khi nó thành phong tục, tập quán, nếp sống của mỗi cộng đồng, dân tộc.
Hơn nữa, những giá trị văn hóa của các tôn giáo (kể cả văn
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, cả tư tưởng văn hóa và đời sống văn hóa)
đang có những đóng góp to lớn và trở thành một bộ phận quan trọng trong nền văn
hóa mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
Trong kho tàng văn hóa mà các nước XHCN chủ trương bảo tồn,
lưu giữ và phát triển, có cả các giá trị văn hóa của các tôn giáo. Vả lại, tín
ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư, và
do đó sự tồn tại của tín ngưỡng tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH như một
hiện tượng xã hội khách quan.
c. Các quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
?? Vì sao phải giải quyết vấn đề tôn giáo trong CNXH?
Giải đáp:
+ Vì thế giới quan tôn giáo là thế giới quan duy tâm. Thế
giới quan của những người cộng sản là duy vật. Do đó sẽ xảy ra mâu thuẫn, xung
đột, thậm chí phủ định lẫn nhau.
+ Tôn giáo có chức năng đền bù hư ảo, dễ khiến con người dễ
bằng lòng với hiện thực, không đấu tranh hiện thực mà chỉ chờ đợi ở một phép
mầu nào đó.
+ Tôn giáo nhận thức sai lệch tự nhiên, xã hội, do đó làm suy
giảm khả năng cải tạo xã hội.
Giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với hệ tư tưởng tôn giáo có sự
khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh
phúc của quần chúng nhân dân lao động. Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề nhạy
cảm, phức tạp; vì thế, yêu cầu khi giải quyết vấn đề liên quan đến tôn giáo
trong CNXH là phải hết sức thận trọng, chính sác, khách quan, vừa giữ vững
những nguyên tắc vừa phải mềm dẻo, linh hoạt về chính sách.
Khi giải quyết những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo trong CNXH, cần nắm vững các nguyên tắc sau đây:
- Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống
xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Khi giải quyết những vấn đề liên
quan đến tôn giáo cần khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn
liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - Đây là yêu cầu
khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguyên tắc này để khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo đối với quần chúng lao động, chủ nghĩa Mác - Lênin không chủ trương can
thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo, không tuyên chiến với tôn giáo,
không chủ trương xóa bỏ tôn giáo như luận điều tuyên truyền của các thế lực thù
địch.
Nguyên tắc này được nêu ra trên cơ
sở triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và thực tiễn giải quyết vấn đề
tôn giáo. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước
hết cần phải thay đổi bản chất tồn tại xã hội, muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh
trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Mà điều
cần thiết trước hết là phảu xác lập được một thế giới hiện thực không có áp
bức, bất công, nghèo đói và thất học cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã
hội. Đó là một quá trình lâu dài và không thể thực hiện được nếu tách rời việc
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chỉ có thông qua quá trình đó để nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho con người thì mới có khả năng
gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Cần quan tâm và coi trọng việc tuyên
truyền, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng, duy vật lịch sự một cách
thường xuyên, dưới nhiều hình thức. Nhưng công tác tuyên truyền, giáo dục cũng như gắn luền và phục vụ cho công cuộc
xây dựng xã hội mới đồng thời bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân.
- Hai là, tôn
trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân.
+ Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một khái
niệm dùng để chỉ quyền của con người được thực hiện các hành vi tôn
giáo, theo đuổi một tín ngưỡng của cá nhân một cách tự do, con người
được theo hoặc không theo một tín ngưỡng tôn giáo nào, những quyền tự
do đó phải nằm trong khuôn khổ pháp luật mà Nhà nước hiện hành quy
định.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là
một trong những quyền được các quốc gia trên thế giới thừa nhận và bảo đảm. Điều 18 trong Tuyên ngôn
quốc tế Nhân quyền năm 1948 viết: “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng,
tự do lương tâm và tự do tôn giáo, quyền này bao gồm cả quyền tự do
thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay
tín ngưỡng qua sự dạy, hành đạo, thờ phụng, nghi lễ, hoặc riêng mình
hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng”. Trong
tác phẩm “Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo”,V.I.Lênin
viết “Bất kỳ ai cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo mình thích hoặc không
thừa nhận một tôn giáo nào, nghĩa là được làm người vô thần, như bất cứ người
xã hội chủ nghĩa nào cũng thường là người vô thần. Mọi sự phân biệt quyền lợi
giữa những công dân có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau đều hoàn toàn không thể
dung thứ được”.
Tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo là xuất phát từ việc tôn trọng tự do tư tưởng - một trong
những quyền cơ bản của công dân, chính là tôn trọng niềm tin của tín đồ vào một
loại hình tôn giáo nào đó mà họ cần đến, vào một loại hình tín ngưỡng mà họ coi
là nhu cầu không thể thiếu. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn
trọng quyền con người, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN.
Công dân có tôn giáo
hay không có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa
vụ như nhau. Cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi
hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân. Tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân là cơ sở để đoàn kết các lực lượng
quần chúng có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng. Qua đó để tiến hành vận động
quần chúng các tôn giáo và hàng ngũ giáo sĩ, chức sắc tôn giáo tham gia vào các
hoạt động tiến bộ, yêu nước do Đảng lãnh đạo, tiến hành các hoạt hoạt động
tuyên truyền, giáo dục, văn hóa, khoa học kỹ thuật, thế giới quan duy vật khoa
học quần chúng… Đồng thời đây là cơ sở để đấu tranh chống lại các luận điệu vu
cáo, các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Nhà nước XHCN.
- Ba là, thực
hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có tôn giáo, đoàn kết
các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo với những người không theo tôn
giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm mọi hành vi
chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
+
V.I.Lênin nhấn mạnh: Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy tâm, những mệnh
lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi dại dột, vô chính phủ, làm
cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn giáo của tín đồ, làm cho họ ngày
càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh thậm chí đi đến chống lại công cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác –Lênin coi trọng
đoàn kết tôn giáo, không tuyên chiến với tôn giáo nhưng như vậy không có nghĩa
là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho
toàn dân trong đó có các tín đồ tôn giáo, góp phần nâng cao trình độ kiến thức
cho toàn dân.
+
Nhà nước XHCN, một mặt, nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử với
nhân dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo và để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ
các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội thông qua quá trình cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ
Tổ quốc, nâng cao mức sống, lối sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những
người lao động có tín ngưỡng tôn giáo sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội.
- Bốn là,
phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo.
+
Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiện thuần túy
về tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì chính trị ít nhiều đều
in rõ trong các tôn giáo. Và từ đó hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiện
và có một quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.
+
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ, mâu thuẫn giữa cách mạng với phản cách mạng,
giữa tiến bộ với phản động, phán ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế,
chính trị giữa các giai cấp và mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn giáo
chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động. Mặt tư tưởng
phản ánh sự khác nhau về niềm tin, mức độ tin, phản ánh mâu thuẫn không mang
tính đối kháng giữa những người có tín ngưỡng và những người không có tín ngưỡng,
tôn giáo cũng như những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
+
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thực chất là phân biệt
tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo
và trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này, trong thực tế không đơn giản, trong
đời sống xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề
chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau. Có những hoạt động
liên quan đến tôn giáo, chúng ta không thể phân biệt được đâu là mặt tư tưởng,
đâu là mặt chính trị. Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, vấn đề tôn
giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề
chính trị hay tư tưởng thuần túy trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là
cần thiết nhằm tránh khuynh hướng “tả” hoặc “hữu” trong quá trình quản lý, ứng
xử những vấn đề nảy sinh từ tín ngưỡng, tôn giáo. Phân biệt hai mặt này để có
chủ truong, phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp những vấn đề liên quan đến
tôn giáo.
+
Xuất phát từ lợi ích giai cấp, dân tộc và an ninh quốc gia, nhà nước XHCN phải
thường xuyên đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động trong tôn giáo. Ngày
nay, các thế lực phản động đang lợi dụng tôn giáo để thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình” nhằm xóa bỏ CNXH ở các nước XHCN còn lại. Điều đó nhắc nhở Đảng
của giai cấp công nhân cần nêu cao cảnh giác, giải quyết kịp thời, cương quyết
đối với những hoạt động lợi dụng tôn giáo chống CNXH, nhưng cũng phải hết sức
khách quan, chính xác, tránh nôn nóng, vội vàng, chủ quan, định kiến.
-
Năm
là,
phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo
+
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, mà nó luôn vận động và
biến đổi không ngừng tùy thuộc vào những điều kiện kinh tế xã hội – lịch sử cụ
thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển
nhất định. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo
đối với đối với xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội,
giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì
vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với
những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
3.
Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và chính sách về tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta
a.
Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
- Một là, Việt Nam là một nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo.
Hiện nay, ở nước ta có sáu tôn giáo
lớn đã được Nhà nước thừa nhận về tổ chức là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành,
Hồi giáo, Cao đài và Hòa hảo với khoảng 20 triệu tín đồ. Ngoài ra còn hàng chục
triệu người khác vẫn giữ tín ngưỡng dân gian, truyền thống và cả tín ngưỡng
nguyên thủy.
- Hai
là, các tín ngưỡng, tôn giáo dung hợp,
đan xen và hòa đồng, không có kỳ thị, tranh chấp và xung đột tôn giáo.
Sự phân bố tôn giáo ở nước ta có đặc
điểm nổi bật là giáo dân của các tôn giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng
quy mô nhỏ, các cộng đồng tôn giáo khác nhau có thể sống xen kẽ nhau. Ở nhiều
nơi, trong một lãng, xã có các nhóm tín đồ của các tôn giáo khác nhau sống đan
xen, hòa hợp nhau, hoặc xen kẽ với những người không theo tôn giáo nào.
- Ba
là, các tôn giáo chính có ảnh hưởng lớn
trong xã hội Việt Nam đều du nhập từ bên ngoài, ít nhiều đều có sự biến đổi và
mang dấu ấn Việt Nam.
Các tôn giáo từ bên ngoài vào Việt
Nam vừa theo cách du nhập tự nhiên qua giao lưu kinh tế, văn hóa như: Phật
giáo, Hồi giáo; vừa có sự áp đặt song hành với quá trình xâm lược của các đế
quốc trong lịch sử như Công giáo, Tin lành…Qúa trình giao du, gặp gỡ các tôn
giáo vừa thâm nhập, bổ sung, vừa cải biến lẫn nhau, khiến cho mỗi tôn giáo đều
có sự biến đổi phù hợp với đặc điểm địa lý, lịch sử và văn hóa Việt Nam.
- Bốn
là, có sự pha trộn phức tạp giữa ý thức
tôn giáo với tín ngưỡng truyền thống và tình cảm, phong tục tập quán và nhân
dân.
Tín ngưỡng, truyền thống dân gian mà
nổi bật nhất là phong tục thờ cúng tổ tiên, đã dung hợp với các tôn giáo, góp
phần tạo nên đặc điểm tình cảm, tâm hồn, tính cách người Việt Nam. Tuy vậy, sự
pha trộn phức tạp giữa ý thức tôn giáo với tín ngưỡng cổ truyền và tình cảm,
phong tục tập quán đã ăn sâu vào đời sống tinh thần người Việt Nam, làm cho một
bộ phận không nhỏ quần chúng lao động rất dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý thức
tôn giáo mới.
b.
Quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo.
- Cùng với vấn đề dân tộc,
tình hình tôn giáo ở nước ta trở thành vấn đề tế nhị, nhạy cảm và đang có những
diễn biến phức tạp. Đây là mũi nhọn, hướng tấn công chính của các thế lực thì địch
chống phá cách mạng nước ta. Tình trạng chuyển đạo trái phép, đặc biệt là đạo
Tin lành, đang gia tăng. Một số người trong các tôn giáo đang có ý định liên kết
với nhau, thực hiện “liên đoàn” chống cộng, nhiều tà giáo xuất hiện. Hiện tượng
mê tín dị đoan đang có chiều hướng gia tăng. Chính sách tôn giáo đúng đắn, giải
quyết tốt vấn đề tôn giáo là góp phần quan trọng vào việc củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân.
- Gần đây, những quan
điểm cơ bản, nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp chủ yếu về vấn đề tôn giáo của Đảng
ta được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IX và được cụ thể hóa
trong Nghị quyết Trung ương 7.
Giải quyết vấn đề tôn
giáo trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất
phát tình hình thực tế nước ta, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng
đã nêu rõ 7 nội dung quan trọng của Chính sách tôn giáo hiện nay.
- Trong quá trình thực
hiện những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo vẫn khắc phục
một số nhận thức không đúng trước đây đã tồn tại trong một thời gian khá dài về
việc không thừa nhận một số yếu tố tích cực trong tôn giáo, phủ nhận sự ra đời
của tôn giáo khi những điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử - cơ sở cho sự tồn tại
của tín ngưỡng, tôn giáo vẫn tồn tại. Nghị quyết 24 của Bộ chính trị năm 1990 về
công tác tôn giáo đã xác định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài – Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn
giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Với tinh thần ấy
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân”, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định: “Thực
hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng
pháp luật”.
- Tôn trọng tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào là nhằm bảo đảm quyền tự do bình
đẳng của công dân. Người theo tôn giáo được quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo đúng pháp luật, không ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân và ảnh hưởng
đến quyền của những người không theo tôn giáo. Cùng với quan điểm tôn trọng tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đồng thời Đảng ta còn chủ
trương: “Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo
hoặc không theo tôn giáo”.
- Đoàn kết đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau phải trên cơ sở chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa
nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo
có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, “sống tốt đời đẹp đạo”,
phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Nhà nước từng
bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo, sớm ban hành luật tôn giáo.
Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc,
gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
- Những
quan điểm và chính sách cụ thể về tôn giáo.
+ Tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quà trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường, theo đúng pháp luật. Các
tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
+ Đảng và Nhà nước thực
hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Nội dung cốt lõi của
công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng
các tôn giáo phải động viện đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ
độc lập và thống nhất Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của
nhân dân nói chung , trong đó có đồng bào tôn giáo.
+ Công tác tôn giáo là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
+ Vấn đề theo đạo và
truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền
tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được
Nhà nước thừa nhận hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt
động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và
gìn giữ, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của
pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo
cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp
luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị
đoan, không được ép buộc nhân dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của
Hiến pháp và pháp luật.
- Về
một số giải pháp chủ yếu trong thời gian tới.
+ Tập trung nâng cao nhận
thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về
vấn đề tôn giáo:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các
quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ,
đảng viên, nhân dân, nhất là trong chức sắc, nhà tu hành và các tín đồ các tôn
giáo.
Giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ
độc lập và thống nhất của Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với
đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ
tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân;
tôn trọng tín ngưỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo,
thông qua đó tăng cường sự đồng thuận giữa những người có các tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau; đồng thời tạo cơ sở để đấu tranh chống những tà đạo, những hoạt
động mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, dân tộc
và nhân dân.
+ Tăng cường công tác vận
động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở:
Thực hiện tốt các quy
chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào
tín đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn với
sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo.
Tăng cường hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với
các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và các tín đồ tôn giáo.
+ Tăng cường quản lý
Nhà nước về Tôn giáo:
Tăng cường đầu tư và thực
hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa cho nhân dân
các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm đến các vùng đông tín đồ tôn giáo và các
vùng dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn.
Hoàn thiện hệ thống
pháp luật về tôn giáo, tiến tới xây dựng luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Tăng cường cảnh giác
cách mạng, xây dựng các phương án cụ thể, chủ động làm thất bại mọi âm mưu của
các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để kích động, chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Giải quyết việc tôn
giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục…của nhà nước.
Thống nhất chủ trương xử
lý vấn đề nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn
giáo.
Đối với hội đoàn tôn
giáo, thực hiện theo nguyên tắc mỗi tổ chức tôn giáo phải được Nhà nước công nhận
và hoạt động theo quy định của pháp luật.
+ Tăng cường công tác tổ
chức, cán bộ làm công tác tôn giáo.
Củng cố kiện toàn bộ
máy tổ chức làm công tác tôn giáo của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mô hình tổ chức quản
lý nhà nước về tôn giáo ở các cấp; xây dựng quy chế phối hợp phát huy sức mạnh
và hiệu quả công tác.
Vừa qua Nghị quyết Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta lại khẳng định tư tưởng nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng tôn giáo đó là: “Tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy
định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân”.
Vấn đề tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp trong giai đoạn hiện nay. Đây là một vấn đề mà nhiều thế lực thù địch đang lợi dụng để kích động quần chúng chống phá chế độ. Chính vì vậy mà vai trò của lực lượng công an trong giải quyết vấn đề tôn giáo càng trở nên to lớn,hết sức quan trọng. Chúng ta cần giải quyết vấn đề này thật khôn khéo,tránh nóng vội,chủ quan bởi hậu quả của nó là rất lớn. Lực lượng công an cần tích cực tham mưu cho Đảng và Nhà nước đề ra nhiều chính sách cụ thể hơn nữa trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong giải quyết các vụ việc cụ thể liên quan đến tôn giáo cần hết sức thận trọng,phải nắm chắc tình hình và giải quyết khôn khéo.
Trả lờiXóa